Ấn Chương Thư Pháp Và Cách Sử Dụng Ấn Chương

Ấn chương là một phần không thể thiếu trong các tác phẩm thư pháp và thư họa. Tác phẩm chưa được đóng dấu ấn chương vẫn được coi là chưa hoàn chỉnh. Ban đầu, ấn chương được sử dụng làm tín vật để xác thực và kiểm chứng. Từ thời nhà Tống và nhà Nguyên trở đi, việc đề lời bạt và đề khoản trong tranh vẽ trở nên quan trọng, do đó, các nhà thư pháp dần nhận thấy và phát huy tác dụng của triện khắc trong tác phẩm thư pháp.

Nghệ thuật triện khắc là một môn nghệ thuật tinh tế, sử dụng chữ triện thư để khắc lên các chất liệu như đá, ngọc, ngà sừng, kim loại, gỗ,... Người khắc triện sử dụng dao khắc để chạm những nội dung đã được viết hoặc vẽ lên bề mặt chất liệu. Đối với những nội dung đơn giản, các nghệ nhân chuyên nghiệp có thể không cần phác thảo trước khi khắc. Nghệ thuật triện khắc có mối quan hệ chặt chẽ với thư pháp, trong đó thể chữ thường dùng là triện thư. Câu nói "triện khắc bảy phần triện, ba phần khắc" nhấn mạnh rằng thư pháp là nền tảng của triện khắc.

TÁC DỤNG CỦA ẤN CHƯƠNG VÀ TRIỆN KHẮC

Ấn chương là một phần không thể thiếu trong các tác phẩm thư pháp và thư họa. Tác phẩm chưa được đóng dấu ấn chương vẫn được coi là chưa hoàn chỉnh. Ban đầu, ấn chương được sử dụng làm tín vật để xác thực và kiểm chứng. Từ thời nhà Tống và nhà Nguyên trở đi, việc đề lời bạt và đề khoản trong tranh vẽ trở nên quan trọng, do đó, các nhà thư pháp dần nhận thấy và phát huy tác dụng của triện khắc trong tác phẩm thư pháp. Ấn chương không chỉ làm tăng vẻ đẹp của tác phẩm mà còn có thể điều chỉnh trọng tâm và sửa chữa những điểm còn thiếu trong bố cục, tạo ra sự cân đối ổn định cho tác phẩm.

Tác phẩm thư pháp của thư pháp gia Khải Công

Trong các tác phẩm thư pháp, việc đóng dấu danh chương không chỉ thể hiện sự trang trọng mà còn phòng ngừa giả mạo. Đóng dấu nhàn chương, dù không có tác dụng định danh nhưng tạo ra cảm giác hứng thú cho tác phẩm. Nhàn chương thường được đóng ở đầu tác phẩm và nội dung của nhàn chương có liên quan đến tác phẩm chính. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về các loại nhàn chương trong phần sau của bài viết.

PHÂN BIỆT BẠCH VĂN VÀ CHU VĂN

Chu văn, hay còn gọi là dương văn, khi đóng dấu lên giấy thì phần chữ sẽ có màu chu sa còn phần nền sẽ là màu trắng. Bạch văn, hay còn gọi là âm văn, khi đóng dấu lên giấy thì phần chữ sẽ có màu trắng còn phần nền sẽ là màu chu sa.

PHÂN LOẠI ẤN CHƯƠNG VÀ CÁCH SỬ DỤNG

Dựa theo công dụng, ấn chương được phân thành ba loại chính: danh tính chương, nhàn chương và giám tàng chương.

1. Danh tính chương 姓名章
Danh tính chương bao gồm các nội dung khắc như tên thật, tên tự hoặc tên hiệu của tác giả, được sử dụng để đóng dấu phía dưới phần đề khoản. Ví dụ, thư pháp gia Khải Công có tên tự là Nguyên Bạch, Nguyên Bá; hiệu là Uyển Bắc Cư Sĩ, Bắc Kinh Thị Mãn Nhân. Một người có thể có nhiều tên tự hoặc tên hiệu, do đó họ có thể khắc nhiều chiếc danh chương khác nhau. Về hình dạng, thư họa gia Trương Đại Thiên cho rằng mặt ấn hình vuông là tốt nhất, nhưng cũng có thể sử dụng hình tròn, còn các loại ấn tùy hình không nên dùng.

Trong tác phẩm của Khải Công, dấu bạch văn "Khải Công" (tên thật) được đóng ở phía trên, trong khi dấu chu văn "Nguyên Bạch" (tên tự) được đóng ở phía dưới.

Một số lưu ý khi đóng dấu:

Khi đề khoản và đóng dấu, tên thật và tên tự nên đi kèm với nhau. Nghĩa là khi viết đề khoản dùng tên thật thì đóng dấu tên tự và ngược lại. Nếu đề khoản không ghi họ tên hoặc tác phẩm không có đề khoản, có thể dùng ấn chương có đầy đủ họ tên để đóng dấu, giúp dễ nhận biết và phân biệt tác giả.

Khi sử dụng hai ấn danh chương để đóng dấu, nên dùng một ấn chu văn và một ấn bạch văn; hai ấn nên có nội dung khác nhau, ví dụ một ấn là tên thật và một ấn là tên tự hoặc tên hiệu. Hai ấn chương đóng phía trên và dưới nên tương đồng về kích cỡ. Nếu cuối đề khoản dùng nhiều ấn, thứ tự ưu tiên là: Danh chương, sau đó đến tự và hiệu chương.

2. Nhàn chương 闲章

Nhàn chương, còn gọi là bố cục chương, bao gồm: Dẫn thủ chương, lan biên chương, áp giác chương và lan yêu chương.

Tác phẩm thư pháp có dẫn thủ chương của Khải Công

Dẫn thủ chương 引首章: Đóng ở vị trí đầu bên phải phía trên của tác phẩm, hay còn gọi là tùy hình chương, tùy hình chương là việc lựa theo tạo hình của phôi triện mà thuận thế đó để khắc, thường là các hình không phải vuông, như chữ nhật, hình tròn, nửa hình tròn, hình ê líp, hồ lô, hoặc các hình tự nhiên khác. Dẫn thủ chương bao gồm trai hiệu chương (tên hiệu phòng đọc sách), nhã thú chương (ghi lại cảm xúc, tâm tư, triết lý), niên hiệu chương (khắc năm), nguyệt hiệu chương (khắc tháng), và tiêu hình chương (khắc hình con giáp).

Tác phẩm có lan biên chương của Tề Bạch Thạch

Lan biên chương 攔邊章: Đóng ở một bên của tác phẩm, có tác dụng tụ khí ở biên. Ví dụ, trong tác phẩm của Tề Bạch Thạch, đặt thêm một dấu lan biên chương ở góc trên bên phải giúp tạo sự cân đối.

Tác phẩm thư pháp áp giác chương của Tề Bạch Thạch

Bức Thư "Trí Đoan Minh Thị  Độc" của Âu Dương Tu 欧阳修《致端明侍读尺牍》

Áp giác chương 壓角章: Đóng ở góc của tác phẩm, có thể ở góc trên bên phải gọi là "nghênh thủ", góc dưới gọi là "áp giác". Áp giác chương có thể đóng ở hai bên, giúp chặn và khép kín không gian góc, bổ sung khoảng trống và điều chỉnh sự cân đối của toàn bức.

Tùng Phiến Ngũ Thi Quyển của Lâm Bô - Bắc Tống 北宋林逋 《松扇五诗卷》

Lan yêu chương 攔腰章: Đóng ở phần eo của tác phẩm ngang dài, thường nhỏ hơn dẫn thủ chương và danh tính chương. Nội dung của nó có thể là quê quán của người viết, cũng có thể dùng tiêu hình ấn (loại ấn khắc hình con giáp). Lan yêu chương thường nhỏ hơn dẫn thủ chương và danh tính chương, 03 loại ấn chương này cấm kỵ đóng trên cùng một đường thẳng.

Một số nhàn chương thuộc loại tiêu hình chương

3. Giám tàng chương 鑑藏章

Giám tàng chương là loại ấn chương dùng để giám định, thưởng thức và sưu tầm. Theo ghi chép, giám tàng chương xuất hiện từ thời nhà Đường, thịnh hành vào thời nhà Tống trở về sau. Đường Thái Tông tự viết chữ "Trinh Quán" làm liên châu ấn (hai ấn nối lại với nhau), Đường Huyền Tông viết "Khai Nguyên" làm liên châu ấn, dùng để ngự tàng các tác phẩm thư họa. Ví dụ, tác phẩm Lan Đình Tự của Vương Hi Chi có nhiều dấu giám tàng chương.

Hoa Khí Huân Nhân Thiếp của Hoàng Đình Kiên 黄庭坚的《花气熏人帖》
có nhiều giám tàng chương ở bên trái

Liên Châu Ấn, 2 ấn nối với nhau

Một số lưu ý khi đóng giám tàng chương:

- Quan sát kích thước của chữ trong tác phẩm để không đóng vào vị trí che khuất chữ hoặc hình vẽ.

- Tránh đóng vào vị trí không thích hợp, có thể làm hỏng diện mạo tác phẩm, làm hư tác phẩm của cổ nhân.

 

MỘT SỐ LƯU Ý KHI ĐÓNG DẤU ẤN CHƯƠNG

Đóng dấu là công đoạn cuối cùng để hoàn thiện tác phẩm, và việc đóng dấu có thể làm cho tác phẩm trở nên hoàn mỹ hơn, nhưng cũng có thể làm hỏng toàn bộ tác phẩm. Do đó, việc đóng dấu cần được đặc biệt coi trọng và phải thực hiện một cách cẩn trọng và tỉ mỉ. Dưới đây là một số điểm cần lưu ý khi đóng dấu:

1. Kích thước của dấu cần phù hợp

Kích thước danh tính chương tương đương cỡ chữ đề khoản

Kích thước dấu phải tương thích với kích thước của tác phẩm, kích thước dấu tương đương với cỡ chữ đề khoản là lý tưởng nhất, nhỏ hơn một chút cũng được, nhưng không nên lớn hơn chữ đề khoản vì sẽ mất đi tính thẩm mỹ. Trong một tác phẩm nếu cần sử dụng hai dấu có kích cỡ khác nhau, dấu nhỏ nên đóng phía trên và dấu lớn nên đóng phía dưới để tạo sự ổn định. Nếu tác phẩm do nhiều người cùng thực hiện, các dấu của từng người cũng cần có kích thước phù hợp.

2. Số lượng dấu ấn hợp lý

Số lượng dấu trong một tác phẩm nên được cân nhắc cẩn thận, cổ nhân thường ưa thích số lẻ khi đóng dấu, như 1 hoặc 3 dấu, không nên đóng 2 hoặc 4 dấu để tránh mất cân đối. Số lượng dấu không nên quá nhiều để tránh tạo cảm giác lấn át nội dung tác phẩm. Nếu tác phẩm cần nhiều dấu, nên lựa chọn các hình thức dấu khác nhau để tránh sự nhàm chán.

Số lượng ấn chương vừa phải, cân đối

3. Vị trí đóng dấu hợp lý

Dấu yêu chương đóng ở giữa để không gian ở giữa chặt chẽ hơn, bớt khoảng trống

Khi đóng dấu, cần phải quan sát và chọn vị trí phù hợp trong tác phẩm. Vị trí đóng dấu phải cân đối với bố cục của tác phẩm. Nếu đề khoản không còn chỗ trống để đóng dấu phía dưới, có thể đóng dấu ở bên trái của dòng chữ đề khoản, không nên đóng bên phải. Đóng dấu cuối đề khoản cần để lại khoảng cách nhất định, tránh đóng quá gần gây cảm giác chật chội. Nếu tác phẩm sử dụng cả dẫn thủ chương và áp giác chương, không nên đóng cả hai ở cùng một phía góc. Áp giác chương nên đóng ở góc dưới bên phải, còn dẫn thủ chương đóng ở góc trên bên phải tạo thế đối xứng.

4. Khinh trọng (nặng nhẹ) thích hợp

Màu sắc của dấu ấn cần được cân nhắc sao cho hợp lý. Chu văn (nét chữ màu chu sa) tạo cảm giác nhẹ nhàng, trong khi bạch văn (nét chữ trắng) tạo cảm giác nặng hơn. Đối với tác phẩm viết bằng mực đen vừa phải thanh nhã, đóng dấu chu văn sẽ khiến tác phẩm hài hòa và thống nhất. Đối với tác phẩm sắc đen đậm, sử dụng bạch văn để tạo sự đối lập mạnh mẽ giữa màu chu sa và màu mực. Nếu tác phẩm sử dụng nhiều dấu, màu sắc của các dấu cần phân rõ chủ thứ, kết hợp nhiều chu văn với ít bạch văn hoặc ngược lại, để tạo sự biến hóa nhưng vẫn hài hòa.

5. Phong cách thống nhất

Phong cách của ấn chương cần đồng điệu và thống nhất với phong cách và thể loại của tác phẩm. Ví dụ, cấp tự ấn chương sử dụng đơn đao trực nhập không nên đóng vào tác phẩm tiểu khải thanh tú, chỉn chu. Tác phẩm mang khí thế hùng kiện không nên dùng ấn chương có đường nét khắc mượt mà, đầy đặn, vì sẽ làm giảm hiệu quả nghệ thuật. Khi đóng dấu nhàn chương, cần chú ý nội dung của dấu và tác phẩm phải liên quan và thống nhất với nhau. Nội dung và phong cách khắc của ấn chương cũng cần hài hòa với chính văn của tác phẩm.

Thư pháp Tâm Thiên Phong
Dạy viết thư pháp | Tranh thư pháp | Dụng cụ thư pháp | Cho thuê ông đồ
tamthienphong.com | tamthienphong.bussiness.siteFanpage Thư pháp chữ Việt | Youtube Tâm Thiên Phong

Địa chỉ: 87/87/4 Nguyễn Sỹ Sách, phường 15, quận Tân Bình, Tp.HCM
Zalo / Điện thoại : 0973 567 517 - 0343 688 613 (Phong)


(*) Xem thêm

Bình luận
  • Đánh giá của bạn
Đã thêm vào giỏ hàng